Trần
Xuân An
NGƯỜI
MẸ TRONG CHIẾN TRANH
Trần Xuân An
NGƯỜI MẸ
TRONG
CHIẾN TRANH
ngâm khúc tự sự
460
câu thơ song thất lục bát
~~ viết công bố
trên Facebook
từ chiều
25-04-2020 đến ngày 02-06-2020 ~~
~~ công bố trên web txawriter.wordpress.com
cũng theo các ngày trên ~~
tập thơ thứ hai mươi lăm
trong bốn mươi bảy đầu sách của tác giả
TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN
KHÚC I
1 ~ mọi sóng biển tới
bờ tóc bạc
nếu giữa khơi, bạc
thoắt lại xanh
thương kính người
trong chiến tranh
chưa già, tóc đã trắng
nhanh, đến già!
5 ~ tháng bươn gần,
năm xa xứ giạt
lại hai mùa miền khác
tạm cư
rối lòng tin tức thật
hư
ngày tránh đạn như
ngày tù, dài ra
mấy lần chạy, cháy
nhà, nhà sập
10 ~ gạch ngói tan,
tôn quắp, thành lều
vùng trắng khắp, bạc
mặt đều
hồi cư, lau bạc, trắng
rêu, rợn người
bao tang chế trắng
trời bạc đất
lại vắng dân, dân mất,
dân về
15 ~ chạy Nam, chạy
Bắc, sảng mê
chỉ hai phe lính xương
kề vắt xương
trĩu lớp già đau
thương Quảng Trị
gánh chiến tranh, buồn
quỵ, gắng cười
tôi học Huế, rồi đôi
nơi
20~ thuộc thư mẹ kể
suốt thời đạn bom
sâu kí ức lưu hòm thư
nát
cả thơ tôi giáp mặt
quê nhà
năm mươi năm rồi, hiện
ra
thành ngâm khúc tím
biếc hoa hoà bình
KHÚC II
25 ~ bên sông Nhùng
khai sinh đời mẹ
vành nôi mây, chiếu
chẽ nghìn xưa *
hát ru dịu nắng, ấm
mưa
năm gian rầm hạ gió
đùa tuổi thơ *
mẹ học trên lớp sơ học
cũ
30 ~ đình Hán Nôm,
Pháp ngữ tập tành
giáo khoa thư Việt,
mực xanh
lính Cần vương hiển
linh quanh đường làng
giỏi bơi lội vượt băng
giải tỉnh
đất Ba Lòng ghe lĩnh
canh đầy
35 ~ Hoàng Xá là
Thượng Xá đây *
khúc ca tẽ bắp vui vầy
Việt Minh
cô bí thư đẹp xinh nữ
hội
dạy bình dân, cứu đói
với làng
chạy Tây, lại vua, cờ
vàng
40 ~ Mỹ – xua Nhật –
bảo Pháp sang cũng về
khổ tâm, thực như mê,
lịch sử
thôn nữ xưa, phận nữ
như xưa
người ơn Chúa Nguyễn,
nghe vua
thôi Việt Minh, đã
cưới đưa mẹ vào
45 ~ (vàng búa liềm,
vàng sao, nền đỏ
cờ ngoại cường! Máu đổ
cho Nga!
ba rời, lạy ảnh Cha
Già *
chống Tây, đường đó,
xót xa đồng bào!)
sôi hận Tàu như trào
hận Pháp
50 ~ giẫm Tổ quốc lẫn
đạp thân nhân
Việt Nam, chữ nhẫn,
Triều - Hàn
năm năm Huế, vận nước
chăng, Huế nào
Genève chém nhát đao:
Bến Hải
sau Điện Biên, Pháp
hãi hùng hàng
55 ~ rõ hai Khối lại
chia ngang!
thêm năm năm Huế, ra
làng gần quê
vào An Giang, cũng về
Hải Thọ
bốn năm, cùng phố chợ
bán mua
Mậu Thân, đạn gấp mươi
mùa
60 ~ tản cư, nhà cháy,
về chưa lửa tàn!
...............
(*) ~ Chiếu chẽ (chiếu chẹ): tấm chiếu nhỏ lót
nôi trẻ con được đan bằng thân cỏ lác phơi khô. ~ Rầm hạ: sàn nhà đều lát gỗ,
cách đất nền khoảng 50 cm. Ở đây, cả năm gian nhà rường xưa đều lát gỗ như thế.
~ Hoàng Xá, theo "Ô Châu cận
lục". Về sau, đổi tên là Thượng Xá. ~ Cha Già: Bác Hồ (Hồ Chí Minh);
bấy giờ, gọi Bác Hồ là Cha Già Dân Tộc.
KHÚC III
ra
Phe Thượng cũng làng ngoại đó
nhà dượng dì vẫn đỏ
Việt Minh
sông Nhùng kề trảng
cát tinh
phù sa ngập dép học
sinh, xanh đồng
65 ~ dỗ dành con,
nhưng lòng mưa rét
Mậu Thân này, thoát
chết, trắng tay
nhà cháy rồi, oán ai
đây?
chiến tranh nổ khắp
nước này đạn bom!
bao hừng đông, chiều
hôm trên ngói
70 ~ bao mưa lùa, nắng
xói quanh tường
căn lầu phố huyện thân
thương
chở che, cũng chịu vô
thường chiến tranh
cả cơ nghiệp có thành
không lại
nỗi âu lo dài mãi bom
mìn
75 ~ chồng xa trong
Quảng, bặt tin
con đầu sống sót? Huế
nghìn xác phơi...
cháu gái mẹ sáng trời
vào chợ
quét tro tàn ngói đổ,
dọn nền
tối cùng du kích hiện
lên
80 ~ rút quân, lính Mỹ
vẽ đen mặt tìm
ngôi nhà mẹ, đứng im
hai vách
xô ngọn đi, tôn rách
lều sau
tấm nhôm cứu trợ, lợp
mau
tin yên ra, huyện
không lâu, súng rền
85 ~ chất bao cát, đào
nền – hầm trú
hầm là nhà, hầm đủ mọi
nhà
chặn sóng đỏ vào, Mỹ
qua
tôi vô Huế học, như xa
chiến trường
bà con ngoại nối đường
tiếp tế
90 ~ mẹ bán hàng, nhờ
mẹ mua hàng
tôi xa mẹ, buồn mênh
mang
đường nhà xưa, Huế
bâng khuâng Âm Hồn *
(Huế còn buồn vì còn
Thập giá
thương dân mình,
thương quá nước mình!
95 ~ cậu dì vẫn đỏ
Việt Minh
giáo đường cải đạo, im
kinh, hoang tàn! *
(25-04 – 29-04-2020)
...............
(*) ~ Đường Âm Hồn, có Miếu Âm Hồn thờ nghĩa
sĩ, nghĩa dân hi sinh trong trận Kinh đô
quật khởi chống Pháp, thất thủ 05-07-1885, về sau gọi là đường Nguyễn Hiệu
(Nguyễn Duy Hiệu), nay là đường Lê Thánh Tôn, thuộc thành nội, TP. Huế. ~ Trong
quãng thời gian Ngô Đình Diệm cầm nắm chính quyền, ở Phe Hạ làng Thượng Xá, các
linh mục tại Quảng Trị có xây một ngôi giáo đường, để truyền đạo, nhưng rồi
cũng hoang phế, không có giáo dân.
KHÚC IV
vận nước thế, phận dân
kẹt giữa
nghiêng nửa này,
nghiêng nửa bờ kia
cầu Hiền Lương đã gãy
lìa
100 ~ như Trường Tiền
gãy, sao chia ruột rà!
dân chẳng thấy sáng ra
một Khối
sáng Miền nào và tối
Miền nào?
đồng bào bắn giết đồng
bào
dân cùng cực, ai dựa
vào giặc ai?
105 ~ sầu thường dân,
thở dài nghẹn tiếng
cun cút cát lùi biến
thân mình
đài chửi đài, dân
hoảng kinh
muốn yên, lo gánh gia
đình, che tai!
lũ trẻ dại sao ngoài
vận nước
110 ~ hồn sục sôi, gió
buốt, tỉnh lòng
tôi nghe đài, tìm hừng
đông
nỗi máu xương phản
chiến trong mơ hồ
nhà mẹ, từ nỗi lo mưa
bão
lo nắng nung khét áo
gió lào
115 ~ nhà mẹ – bao cát
chất cao
hầm che pháo khoét bom
đào, cho con
đúc bờ lô, mua tôn
tích góp
cọc rào sắt ngửa ốp
hàn vài
dân lo mạng sống đêm
ngày
120 ~ hai phe súng đạn
đem cày mạng dân!
ở Quảng Trị, nhà dần
xây được
trong Tam Kỳ, tôi bước
vào thơ
lửa bừng bút nhóm học
trò
chuông chùa cũng vọng
bên bờ hương sưa
KHÚC V
125 ~ dân cả tỉnh sống
đùa với sợ
quen chiến tranh nên
ngỡ như không
lúa xanh đồng, chợ còn
đông
áo chị trắng tiếp
trường công Nguyễn Hoàng
nhận con nuôi, gái
ngoan, bên mẹ
130 ~ chị cuối tuần
vào để thêm tươi
bỗng Hạ Lào, máu rựng
trời
Mùa hè đỏ lửa tận nơi
Cổ Thành
đưa mẹ vô, là anh, con
ruột
bà con ngoại nhanh
vượt đường ra
135 ~ ngoảnh lui, đạn
rực quê nhà
pháo "Đại lộ kinh hoàng" và Paris
trại Non Nước biển rì
rào sóng
may anh trai được sống
kề bên
ba cùng mẹ không nguôi
quên
140 ~ nhà vừa xây lại
hẳn nền cũng bay
Tam Kỳ, Đà Nẵng đây,
nuôi bé
anh trai chăm lo mẹ
chúng mình
hồi hương, đâu đã hoà
bình
Cổ Thành dù đã siêu
sinh vạn hồn
145 ~ nhà mẹ tan nát
hơn Tết đó
kề cửa sau còn hố bom
sâu
vách thành bụi, nền cỏ
lau
rỗ quằn tôn, thì tìm
đâu tủ giường!
ai số phận còn thương,
còn đất
150 ~ Quảng Trị khô
nước mắt luôn rồi
cả làng ngoại cũng tả
tơi
nhà năm căn rụi, không
người trở vô!
(02-05-2020)
KHÚC VI
bàng cổ thụ cành khô
chết đứng
chung nỗi đau, đình
cũng tan hoang
155 ~ giáo đường Chúa,
cũng điêu tàn
Phật chia khổ, chùa
san bằng, ngự tâm
bắc Thạch Hãn thôi ầm
vang lửa
thay Hiền Lương, cắt
nửa cầu Ga
bom mìn, năm rưỡi dò
rà
160 ~ hồi cư, còn trắng
tang ma, bom mìn!
cát Kẻ Diên như phin
lụa trắng
trường Nguyễn Hoàng
mưa nắng vẽ lên
cư dân Hải Trí thành
tên
tràm xanh trám trét mơ
nên phố phường
165 ~ đất ơi, quá phi
thường sức sống
bài "Mười trứng", vọng sóng thuở
Gianh?
chạy vô, ngó ra không
đành
đất ba huyện rưỡi, xin
dành chạy ra
cát ơi, cát quê nhà
Quảng Trị
170 ~ Khe Nước Chè sử
rỉ máu hoài
huyết ngọc, đâu phải
ngọc trai
hát cho hoá ngọc nỗi
ai oán này
ai oán, thấu tai Thầy
Địa Tạng
Quảng Trị từng lắng
oán, vơi buồn
175 ~ cát di tích nỡ
nào suông
hồi cư, tháng chạp,
nến hương, nguôi lòng
(04-5-2020)
KHÚC VII
Tết Mậu Thân, trơ song
đôi vách
ngói – xà bần, lều
rách tôn bay
Hè Đỏ Lửa, miểng chém
dày
180 ~ ba vài sắt
thủng, giạt đầy vữa vôi
mới hồi cư, che trời,
căng bạt
vài sắt nhà chờ gác
cột cây!
lợp tôn cứu trợ là may
phên quanh kết miếng
thủng này, xé kia
185 ~ giếng nhà đào,
xây chia nhà cạnh
cũng vỡ thành, nước
quánh, vét bùn
vá nền pháo khoét,
giun đùn
còn nguyên hầm trú,
đắp vun mái hầm
nhà đủ vững hằng năm
mưa bão
190 ~ chắn gió lào
thổi rão, mỗi mùa
vẫn nhìn ra chợ bán
mua
hàng tạp hoá, phố
huyện vừa hồi sinh
con gái nuôi hết mình
lo học
phải băng ngang, vượt
dọc theo trường
195 ~ chiến tranh ngắt
lối, nối đường
vẫn bên mẹ, việc ngày
thường, chăm ngoan
đều sống lại, huyện
làng Quảng Trị
(mặc giành đất, chưa
nghỉ giành dân!)
nhà là quán mẹ, bình
an
200 ~ cháy nhà, nhà
sập, hai lần, còn chi!
đám cưới chị, mẹ đi
không được
có ba lo gương lược vu
quy
điện thắp thêm, chị đỗ
thi
sáng phên phế liệu, kể
gì neo đơn!
(05-05-2020)
KHÚC VIII
205 ~ vĩ tuyến tròn
mãi còn đường thẳng
Hoàng Sa ơi, Thạch Hãn
không chia
Hoàng Sa không thuộc
ngoài kia
"da
beo" Quảng Trị không lìa Hoàng Sa *
sóng Hoàng Sa vỗ oà
vào trán
210 ~ tâm nghiêng Đỏ,
choáng váng, lại nghiêm
Bến Hải vẫn cháy nỗi
niềm
gọng kìm hai Khối, que
diêm sáng gì?
Tết Đà Nẵng ngóng chi
phượng Huế?
ra học Huế, nhớ mẹ,
trông ra
215 ~ Phước Long, vỡ
ảo tưởng hoà
thêm một Tết, súng
tháng ba nổ rồi!
thế hệ tôi chơi vơi
thế đó
ngâm “Hồ trường”, bão đỏ, lốc vàng *
đa chiều, sáng, nhưng
bất an
220 ~ một chiều bạo
lực chấp ngàn Hoàng Sa!
đạn Tây Nguyên nháng
loà Quảng Trị
bên bỏ cuộc quyết ý,
ban ra
biết hoà bình chỉ còn
Nga
súng mìn không mắt,
chạy xa súng mìn
225 ~ chạy cũng do
không tin bỏ cuộc?
chạy vì lo ta buộc
trói ta?
nhân dân, mười bốn
tháng qua
hồi cư, lại bỏ quê
nhà, giạt trôi!
(06-05-2020)
..............
(*) ~ Hiệp định Paris 27-01-1973: ngưng bắn
kiểu "da beo", vùng đóng
quân thuộc phe nào thì hai phe vẫn phải tôn trọng phạm vi ấy. Thạch Hãn không
liên quan gì quần đảo Hoàng Sa. ~ Bài thơ “Hồ
trường” xuất hiện trong thời bế tắc sau phong trào Đông Du, cầu ngoại viện
Nhật bị tan vỡ (thậm chí sau đó nước ta bị chính Nhật xâm lược). Bài “Hồ trường” lại thịnh hành vào khoảng
1970-1975 tại Miền Nam.
KHÚC IX
tôi nóng ruột, ngó
trời, mưa ướt
230 ~ cầu An Lỗ, chặn
bước, sập rồi
đi cứu trợ, trông
ngược xuôi
ba ra đón mẹ, em nuôi,
đang vào!
tôi vẫn nhớ năm nào mẹ
nói
hoà bình, ăn hột muối,
cũng mong
235 ~ Quang Trung phe
giữa đã không *
một phe bỏ cuộc, núi
sông mới lành
cả nhà vào, nhưng anh,
còn thiếu
Mai Lĩnh nổ, dân liệu
đường đi
thoát Thuận An, pháo
ầm ì
240 ~ ba bảo tôi, phải
tách li nẻo vào
xe tu viện nơi nào,
tôi níu
các tu sĩ hiền dịu gật
đầu
kìn kìn xe nối đuôi
nhau
Hải Vân khuya, dải sao
đau, Ngân hà!
245 ~ trong xe, trông
bao la mặt biển
có anh trên những
chuyến tàu vô?
râu ba quên cạo, trắng
phơ
phai tóc mẹ, em thơ,
giờ nơi đâu?
(06-05-2020)
..................
(*) Thuở đó, ở Miền Nam có thành phần thứ ba
(đứng giữa hai phe Hà Nội và Sài Gòn), nhưng chỉ đấu tranh nghị trường, không
có thực lực quân đội.
KHÚC X
mừng cả nhà gặp nhau,
Đà Nẵng
250 ~ ngoái trông ra,
Huế nắng đỏ cờ?
Tam Kỳ kỉ niệm, trông
vô
trời sao vàng, bạn giữ
thơ giùm mình? *
vào Sài Gòn, gọi sinh
viên Huế
tôi theo trường, không
lẽ ở đây
255 ~ cầu không vận
quá cao bay
xà lan, thiếu chị non
ngày nở sinh!
bỏ cuộc, còn chiến
binh uất bắn
xà lan, thuyền nhỏ
dẫn, gọi tàu
trại tản cư đã dựng
mau
260 ~ chia gia quyến,
tránh kề nhau, tang chùm
Sài Gòn ơi, bạn đùm bọc
bạn
bộ đội vào, đứng
thẳng, cùng chào
tôi chống Mỹ, Tàu, lạ
sao
tiếc từ chống Pháp cờ
hào quang Nga!
(07-05-2020)
..............
(*) Trân trọng và thân tình cảm ơn bạn Lê Văn
Thanh (bạn thời trung học, kề nhà, tên thường gọi là Chanh) đã cất giữ giúp tôi
tập thơ tôi viết tay năm 17 tuổi, “Những
tình thơ mùa thu” (1973), và cảm ơn bạn Thái Quang Hồng (bạn thời sinh
viên, cùng lớp) đã mang từ Tam Kỳ ra cho tôi vào năm 1977. Vô cùng biết ơn hai
bạn.
KHÚC XI
265 ~ biển Chí Linh
gần, xa tiếng sóng
nhịp thời gian vang
động ruột gan
mẹ thầm hỏi vọng sông
Hàn
chìm lạc biển hay yên
thân về nhà?
sữa sơ sinh, tã hoa mẹ
xách
270 ~ xuống xà lan,
thuyền tách cầu tàu
gia đình con gái đi
đâu?
Vũng Tàu, mắt mẹ trũng
sâu, khóc hoài
trại tạm cư, lều dài
xanh bạt
màu đáy biển, đâu xác
thân thương?
275 ~ ra bờ, nhìn mặt
sình trương
bé vâng mẹ, nhưng đại
dương nghìn bờ!
nhớ cửa nhà, thẫn thờ
nhớ quán
đầu tháng ba, cuối
tháng tư rồi
có bom pháo nổ tả tơi?
280 ~ hay Vàng bỏ cuộc
này thôi tan tành?
ngoại sơ tán yên lành
ngụ Đỏ
ba năm dài lút cỏ bỏ
làng
sắp hồi cư, sum họp
chăng
nhưng Vàng bỏ cuộc,
vượt ngàn vạn ghe!
285 ~ hoà bình, yên
hai phe nội chiến
các ngoại cường "cai nghiện máu xương"
(mấy mươi năm phận dân
thường
ghê súng đạn, ngữ văn
chương rợn mình!)
trại tản cư Chí Linh
nín thở
290 ~ xé sóng ru xanh
gió, đạn gần
lặng người, khóc bến
sông Hàn
thương quê Thượng Xá,
thương thân, thương đời...
(08-05-2020)
KHÚC XII
ba mẹ, em gái nuôi,
còn đó
đỏ xanh ngời, gặp gỡ
Sài Gòn
295 ~ biển di tản,
nhưng anh còn
tôi về, giã bạn, nửa
hồn nhiên vui
hoà bình, nửa ngậm
ngùi, đứt ruột
bao người đi, lá vượt
trùng dương
thống nhất nhưng nghẹn
đau thương
300 ~ bốn nghìn năm,
bỗng bất thường, khác xưa
ba bình thản vào chùa,
hương thắp
loa quân quản rao gấp
vé về
mừng lẫn lo, chờ
chuyến xe
giỏ cháu ngoại, mẹ mân
mê, nóng lòng
305 ~ xe qua sông, qua
đồng, qua phố
càng đi ra, cờ đỏ vơi
xanh
ba mẹ phấp phỏng
thương anh
bé lên sởi, xóc, tròng
trành, sốt mê
Đà Nẵng mắt đỏ hoe, xơ
xác
310 ~ gặp lại chị,
nước mắt mẹ cười
cháy đổ mấy chục năm
rồi
người đi, chưa rõ, còn
người ở nguyên
hoà bình, nghĩ không
phiền, đoản hậu
mẹ hiền hoà, đau đáu
hoà bình
315 ~ tin bên bỏ cuộc
bình minh
bên được cuộc, giũ tâm
mình, sáng trong
nhớ nhà cửa, nghe lòng
lửa đốt
ba mẹ ra coi sót lại gì
bé vui, ru cháu, mơ
chi
320 ~ hẳn mong mẹ ruột
đã đi vào làng
tiễn gia đình, ngổn
ngang xe khác
hoà đàm cũng tan nát
vậy sao?
bước lịch sử nghiêng
lệch nào
nước hoà bình, thuận
lí cao sâu đời
(09-05-2020)
KHÚC XIII
325 ~ đèo Hải Vân, xe
rơi, xe đổ
khải hoàn môn tre đỏ
khắp nơi
chiến tranh Quảng Trị
rộc người
bàng hoàng súng vẫn
chĩa trời phòng không
nhà mẹ trống, gió lồng
sau trước!
330 ~ tủi mừng ngờ lạc
nước ngoài nào
cậu dì làng ngoại chạy
vào
hồi cư hai hướng,
nghẹn ngào, Kẻ Diên!
Quảng Trị, nối hai
miền bằng máu
nhà dân tan, tay bấu
nền nhà!
335 ~ xác nhà, mẹ sững
lần ba
đọng rưng nước mắt
nắng hoà bình ơi
làng ngoại còn cỏ bời
vườn ruộng
vào giúp ba, chiều
xuống cậu ra
thả râu ấm nụ cười già
340 ~ bao biến động,
sinh tử qua tuổi người
ba lần nát, chợ rồi
đông lại
trăm dù du thay mái
nhà lồng *
khổ quá nhiều, khổ như
không
sạp hàng cũ ngó sanh
trồng xanh xưa
345 ~ từ Đà Nẵng, bé
vừa ra đấy
mẹ ruột lên ôm lấy con
mình
mợ ra phía Đỏ, đinh
ninh
cho con nuôi, giữ
nguyên tình cháu cô
mẹ nuôi, lại o
cô-cậu-lại *
350 ~ về Thi Ông, bé
cải mới tên
bằng liệt sĩ treo đầy
phên
tắt lửa đạn, sáng lửa
đèn học khuya
yên hồi cư, thôi lìa
Thạch Hãn
ba ra dâng mộ vắng
khói hương
355 ~ Trúc Lâm, thôi
lấp tiếng chuông
An Cư, trầm ngát, lau
vương đường vào
đình cạnh nhà, chất
cao ngói vỡ
còn bàng non thay cổ
thụ khô
thắp hương miếu, lạy
vọng vô
360 ~ nền chùa, mẹ
vái, thương trơ vơ nền
trọ Bến Ngự, ra bên ba
mẹ
thăm sông Nhùng tấm bé
tắm hoài
hồi cư sau ba năm dài
Hiền Lương, Thạch Hãn
rạn vai cậu dì
(11-05-2020)
...............
(*) ~ Dù du: cái dù lớn, có chân đế đặt trên
đất hoặc cắm vào ống tre chôn sẵn vào đất, che mưa nắng để bán hàng, có thể di
chuyển. ~ O cô cậu lại: cô thuộc quan hệ cậu cô hai đời trước, mà cháu đời thứ
ba gọi người chị hoặc em cậu cô với cha.